Trong giai đoạn 2011-2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thể hiện tính chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. Những kết quả đạt được cho thấy, chính sách tiền tệ đã đóng góp quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát giảm dần, đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát dài nhất trong một thập kỷ qua; GDP năm 2015 tăng 6,68%, mức cao nhất trong 8 năm qua. Hệ thống ngân hàng được bảo đảm an toàn và phát triển bền vững...
Chính sách chủ động, nền kinh tế được gỡ khó
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 và suy thoái kinh tế sau đó đã làm tăng thêm mức độ trầm trọng của nền kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh mọi nguồn lực đều được tận dụng để đón đầu những cơ hội sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (kể từ ngày 11-1-2007) và các biện pháp hỗ trợ lãi suất để đối phó với khủng hoảng đã đẩy các cơ quan quản lý vào tình thế khó khăn, khi phần lớn nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội được đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp vào thị trường nhà đất và bị chôn vùi ở lĩnh vực này khi nhu cầu và sức mua đều suy giảm mạnh.
Bước sang năm 2011, tình hình kinh tế vĩ mô tuy đã cải thiện, nhưng tiếp tục diễn biến phức tạp, lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và bất động sản suy giảm mạnh. Hệ thống ngân hàng phải đối mặt với những rủi ro ngày càng gia tăng, nổi bật là rủi ro tín dụng, nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục gặp khó khăn về thanh khoản do nợ xấu tăng cao, gây mất an toàn hệ thống ngân hàng. Trước tình hình đó, NHNN đã xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế khác nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đồng thời bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD. NHNN đã sử dụng kết hợp hài hòa các công cụ chính sách tiền tệ nhằm khuyến khích dòng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế.
Về điều hành thị trường tiền tệ, các nhóm giải pháp tín dụng được tập trung thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các TCTD. Theo đó, NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD, có điều chỉnh linh hoạt, thực hiện các giải pháp hướng dòng vốn tín dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Bên cạnh đó, NHNN cũng chủ động triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế, tổ chức nhiều đoàn công tác, phối hợp với chính quyền địa phương nắm bắt và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quan hệ vay vốn ngân hàng giữa các doanh nghiệp và TCTD trên địa bàn.
NHNN đã chỉ đạo toàn ngành triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, góp phần khơi thông dòng tín dụng, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và một số chương trình kinh tế trọng điểm, phù hợp với tính đặc thù về ngành nghề và lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cũng như yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trước những diễn biến ngày càng phức tạp trên toàn cầu. Đây là những mắt xích kinh tế quan trọng, từng bước tạo ra sự phát triển đồng bộ và cân đối trong nền kinh tế quốc dân.
Giảm mặt bằng lãi suất, tập trung cho vay lĩnh vực ưu tiên
Trong những tháng cuối năm 2011, tình hình thanh khoản của một số TCTD bị thiếu hụt lớn và nằm trong tình trạng báo động, thị trường tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro bất ổn, lãi suất cho vay ở mức cao, lên đến 20-25%/năm. Để bảo đảm trật tự, kỷ cương thị trường tiền tệ, ngày 7-9-2011, NHNN ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN yêu cầu các TCTD ấn định lãi suất huy động bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không được vượt quá 14%/năm và đưa ra các chế tài xử lý đối với cá nhân là người quản lý, điều hành của TCTD và TCTD vi phạm quy định về lãi suất.
Từ năm 2012, khi lạm phát đã được kiểm soát và giảm dần, để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, NHNN đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, kết hợp với điều hành cung ứng tiền để điều tiết thanh khoản, tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất; tiến hành dỡ bỏ trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng vào tháng 6-2012 và lãi suất tiền gửi kỳ hạn trên 6 tháng từ tháng 6-2013. Đồng thời, từ tháng 5-2012, quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với 4 lĩnh vực: Nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ; đến tháng 12-2012, bổ sung thêm doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Các mức trần lãi suất huy động và cho vay cũng được điều chỉnh giảm phù hợp với điều kiện vĩ mô, mục tiêu chính sách tiền tệ.
Trên cơ sở bám sát tình hình diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ, NHNN đã chủ động điều chỉnh giảm nhanh và mạnh các mức lãi suất chính sách để tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ. Tính đến cuối năm 2015, NHNN đã giảm 9 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm khoảng 8,5%/năm; quy định trần lãi suất cho vay bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên thấp hơn khoảng 2-3%/năm so với lãi suất cho vay thông thường và điều chỉnh giảm từ mức 15% xuống còn 7%/năm; quy định và điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động bằng VND từ mức 14%/năm xuống còn 5,5%/năm. Đối với ngoại tệ, NHNN đã 6 lần điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi USD, đưa lãi suất tiền gửi USD của tổ chức và cá nhân xuống mức lãi suất đồng nhất 0%/năm.
Mặc dù mặt bằng lãi suất giảm, nguồn vốn huy động vẫn tăng. Tính đến ngày 21-12-2015, nguồn vốn huy động tăng 13,59% so với cuối năm trước, tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Để tạo điều kiện giảm lãi suất, NHNN giữ ổn định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND, các TCTD trên cơ sở nhu cầu vốn của thị trường cân đối điều chỉnh giảm lãi suất cho vay so với trần quy định; điều tiết thanh khoản của các TCTD hợp lý để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất. Trong năm 2015, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất cho vay một số chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực xuống mức khoảng 6,5-6,6%/năm; tiếp tục yêu cầu các TCTD rà soát giảm lãi suất cho vay của các khoản vay cũ về mức lãi suất cho vay hiện hành. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 0,3-0,5%/năm so với cuối năm trước, giảm khoảng 50% so với thời điểm cuối năm 2011; dư nợ của những khoản cho vay có lãi suất trên 13%/năm còn 6,4%, giảm mạnh so với tỷ lệ 10,1% vào cuối năm 2014 và so với tỷ lệ hơn 30% vào cuối tháng 6-2013. Lãi suất huy động giảm khoảng 0,2-0,5%/năm và hiện ở mức tương đối thấp, lòng tin vào VND tiếp tục được củng cố, nguồn vốn huy động tăng gần 14% so với cuối năm 2014.
Với mức độ và tần suất điều chỉnh giảm lãi suất như trên, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm đáng kể, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí vay vốn. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế giảm nhanh, tỷ giá được duy trì ổn định, dự trữ ngoại hối Nhà nước đã được cải thiện đáng kể. Nhờ giám sát và kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động, đồng thời với các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho những ngân hàng yếu kém, tình trạng một số TCTD phải vay mượn lẫn nhau với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng đã được khắc phục.
Thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng ổn định trở lại
Có thể nói, trong 5 năm qua, nhờ triển khai quyết liệt nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường tiền tệ và ngân hàng, các yếu tố chính trên thị trường này như mặt bằng lãi suất và tín dụng đã thay đổi tích cực. Đến nay, mặt bằng lãi suất huy động VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,5-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,4-7,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6-9%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn ở mức 9-11%/năm. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên tiếp tục ổn định ở mức thấp (6-7%/năm đối với kỳ hạn ngắn), các ngân hàng thương mại nhà nước tiếp tục áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay đối với một số chương trình kinh tế trọng điểm giảm khoảng 0,5-0,6%/năm xuống khoảng 6,5-6,6%/năm, nhằm hỗ trợ tốt hơn cho một số ngành lĩnh vực đặc thù và các đối tượng chính sách. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3-6,7%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3-5,5%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 5,5-6,7%/năm. Dòng vốn tín dụng tiếp tục được phân bổ hợp lý, tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế.
Trong 5 năm 2011-2015, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, NHNN đã thể hiện tính chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, phù hợp với những thay đổi lớn của tình hình thực tế. Những kết quả đạt được cho thấy, chính sách tiền tệ đã đóng góp quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát giảm dần, đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát dài nhất trong một thập kỷ qua; GDP năm 2015 tăng 6,68%, mức cao nhất trong 8 năm qua. Hệ thống ngân hàng được bảo đảm an toàn và phát triển bền vững, thanh khoản của TCTD được bảo đảm, nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng được đẩy lùi. Việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế. Năm 2015 đánh dấu năm thứ 4 liên tiếp ngành ngân hàng hoàn thành tốt các chỉ tiêu do Đảng, Nhà nước và Chính phủ đề ra, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2015 của đất nước.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và những chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế, góp phần mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế. Thường xuyên theo dõi và đánh giá tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt là tác động của đà suy giảm tăng trưởng kinh tế tại nhiều nền kinh tế mới nổi trên thế giới, tác động của giá dầu và các loại hàng hóa trên thị trường quốc tế.
Vũ Xuân Thanh