Tái cơ cấu và xử lý nợ xấu ngân hàng: Thành công lớn nhất là ổn định hệ thống
27/05/2015
Theo đánh giá của Chính phủ tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội, việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đây là vấn đề đang được dư luận rất quan tâm, để thông tin đến công chúng về chủ đề này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn TS. Trần Du Lịch - Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP. HCM.
Thưa ông, điều mà ông ấn tượng nhất về tình hình kinh tế vĩ mô những tháng đầu năm là gì?
Tình hình kinh tế trong những tháng đầu năm nay diễn ra theo xu hướng tích cực, thể hiện rõ ở một số mặt cơ bản như tốc độ tăng trưởng kinh tế, giá cả ổn định, sản xuất công nghiệp phục hồi… trong đó đặc biệt là tái cấu trúc hệ thống NH đã bước đầu thu được những kết quả khả quan. Trong 3 lĩnh vực ưu tiên tái cơ cấu trong giai đoạn 2011-2015, thì tôi đánh giá cao kết quả thực hiện theo lộ trình tái cấu trúc hệ thống NH và xử lý nợ xấu, điều đó thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ và ngành NH trong việc lành mạnh hóa hệ thống. Việc ổn định hệ thống NH có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô vì NH được coi là huyết mạnh của nền kinh tế.
Còn về hệ thống NH thì sao thưa ông?
Phải đánh giá một cách khách quan, trong thời gian vừa qua, ngành NH đã có nhiều nỗ lực và thực thi nhiệm vụ hiệu quả góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường vàng, ngoại tệ, giảm mặt bằng lãi suất hợp lý và quyết tâm thực hiện tái cấu trúc và xử lý nợ xấu. Đặc biệt, lần đầu tiên trong nhiều năm, dư nợ tín dụng đã tăng trên 4%, điều mà trong 3 năm qua chúng ta đã không làm được. NHNN đã đưa ra nhiều chương trình tín dụng mang tính sáng tạo như chương trình cho vay theo mô hình liên kết, tập trung vào 5 lĩnh vực tín dụng ưu tiên như: nông nghiệp, xuất khẩu, DNNVV… Những nỗ lực đó đã góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng, giúp nhiều DN phục hồi sản xuất.
Điều tôi băn khoăn nhất là việc tái cơ cấu và xử lý nợ xấu còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức vì đây là việc khó và liên quan nhiều đến các yếu tố khác. Nhưng về tổng thể, thời gian vừa qua đã chứng minh sự quyết tâm và nỗ lực của hệ thống NH để giải quyết vấn đề này.
Tuy nhiên, vẫn còn ý kiến cho rằng việc tái cơ cấu NH và xử lý nợ xấu còn chậm và chỉ là sự gom lại một cách cơ học mà chưa giải quyết được tận gốc vấn đề, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Có thể nói, câu chuyện xử lý nợ xấu là một việc khó đòi hỏi thời gian và quyết tâm cao. Nếu chúng ta làm không tốt việc này, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống NH và nền kinh tế. VAMC mua nợ xấu giống như tách “con nghiện” ra khỏi cộng đồng, xét về lợi ích tổng thể là làm lành mạnh hệ thống NH và vẫn đảm bảo nguyên tắc chi phí tối thiểu. Tuy nhiên, để xử lý dứt điểm được nợ xấu như kỳ vọng, đòi hỏi nhiều yếu tố khác như kinh tế vĩ mô ổn định, duy trì đà tăng trưởng, phục hồi thị trường bất động sản, hoàn thiện cơ chế pháp lý đặc biệt liên quan đến cơ chế hình thành thị trường mua-bán nợ.
Về vấn đề nợ xấu có ý kiến cho rằng, con số nợ xấu được đưa ra không thống nhất. Ý kiến của ông về vấn đề này ra sao?
Trên thực tế có như vậy. Tỷ lệ nợ xấu mỗi đơn vị đưa ra lại dựa trên tiêu chí và mục tiêu khác nhau. Đối với tổ chức tín dụng khi công bố nợ xấu bao giờ cũng có tâm lý che giấu nợ xấu. Thực tế, có những NH chỉ báo cáo tỷ lệ nợ xấu dưới 3% nhưng kết quả thanh tra cho thấy tỷ lệ nợ xấu cao gấp nhiều lần con số báo cáo, thậm chí gấp hàng chục lần, do họ ngại phải trích lập dự phòng rủi ro cao, từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và cổ tức.
Thông qua công tác thanh tra, giám sát, NHNN trong những năm qua công bố tỷ lệ nợ xấu thường cao hơn tỷ lệ do NHTM công bố. Trong thực tế đã có sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ nợ xấu của TCTD báo cáo khoảng 3% đến 4% so với tỷ lệ nợ xấu theo đánh giá của NHNN thời điểm 2012 khoảng 17%. Điều đó không phải có sự đột biến nào về số liệu nợ xấu mà chẳng qua là con số nợ xấu, chất lượng tín dụng được đánh giá, soi xét qua lăng kính thanh tra, giám sát.
Ví dụ năm 1999-2000, tỷ lệ nợ xấu của NH khoảng 13% trong khi đó theo đánh giá của IMF tỷ lệ nợ xấu của TCTD thời điểm đó không dưới 30% theo chuẩn mực quốc tế. Điều quan trọng không phải là sự khác nhau của các con số mà tập trung tìm các giải pháp thực thi để giải quyết câu chuyện nợ xấu trên nguyên tắc phải kiểm soát và xử lý được. Vì nếu chúng ta không làm tốt sẽ ảnh hưởng đến tổng thể nền kinh tế và sự an toàn lành mạnh của hệ thống NH. Tôi đánh giá kết quả xử lý nợ xấu theo giác độ giảm sự tắc nghẽn tín dụng và bảo đảm tính thanh khoản của hệ thống NHTM. Xét theo 2 yếu tố mang tính định tính như vậy, thì thực tế việc xử lý nợ xấu diễn ra tích cực.
Tôi kỳ vọng như vậy. Theo kết quả giám sát mới đây, khi khảo sát 12 NHTMCP có hội sở tại TP. HCM của đoàn Đại biểu Quốc hội cho thấy, tỷ lệ nợ xấu chỉ có 2,45%.Tuy nhiên nếu tính cả các công ty tài chính và một vài NHTM đang được NHNN giám sát đặt biệt, thì tỷ lệ nợ xấu vẫn còn 5,53%. Với quyết tâm cao của hệ thống NH trong thời gian vừa qua, tôi tin là việc đưa nợ xấu về khoảng 3% là khả quan và thực tế, nhưng việc xử lý căn cơ vấn đề nợ xấu và “hậu nợ xấu” chắc chắn phải mất nhiều năm nữa.
Theo ông, đâu là thành công và khó khăn lớn nhất trong việc tái cơ cấu và xử lý nợ xấu hệ thống NH trong thời gian vừa qua?
Thành công lớn nhất của ngành NH trong thời gian qua, tôi nghĩ là ổn định hệ thống và tạo được niềm tin với công chúng. Đây là thành công không tính bằng con số định lượng nhưng vô cùng có ý nghĩa vì chúng ta cần đặt tình huống ngược lại nếu hệ thống NH bất ổn sẽ ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ, trật tự an toàn xã hội và ảnh hưởng cả nền kinh tế. Thậm chí khi thực hiện mua lại, sáp nhập một số NH, tâm lý nhân dân ổn định và không xảy ra hiện tượng rút tiền hàng loạt. Điều đó thể hiện sự chủ động kiểm soát tình hình của NHNN và niềm tin của người gửi tiền với hệ thống NH.
Khó khăn lớn nhất tôi nghĩ đúng là cơ chế để xử lý nợ xấu còn nhiều vướng mắc. Hoạt động của VAMC trong thời gian vừa qua đã thực hiện được tốt nhiệm vụ của mình. Việc xử lý khối tài sản đã mua và sẽ mua đang là thách thức lớn đối với VAMC, nhưng dù sao VAMC cũng là một sự lựa chọn tốt nhất cho cách xử lý nợ xấu của Việt Nam trong bối cảnh nguồn lực tài chính xử lý nợ xấu còn hạn chế và không được sử dụng ngân sách. Tuy nhiên, để xử lý dứt điểm nợ xấu, cần thời gian và sự hoàn thiện cơ chế pháp lý cho hoạt động của VAMC, đặc biệt liên quan đến hình thành cơ chế cho thị trường mua bán nợ, trong đó tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến quyền của chủ nợ theo Luật Dân sự, thủ tục phát mãi tài sản thế chấp… mà hiện nay đang là trở ngại rất lớn trong quá trình thanh lý tài sản thế chấp.
Trân trọng cảm ơn ông!
Minh Hải Thực hiện (theo thoibaonganhang)