Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong 80 năm xây dựng đất nước
28/08/2025
Trong Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt của phong trào đấu tranh cách mạng, đồng thời đảm nhiệm “hậu phương sản xuất”, giữ mạch sống kinh tế – kỹ thuật trong điều kiện bom đạn khốc liệt. Từ khoảng 6.000 đoàn viên (1930), đến năm 1945 tổ chức Công đoàn đã quy tụ hơn 200.000 đoàn viên, trở thành điểm tựa đoàn kết của công nhân lao động, góp phần làm nên cao trào khởi nghĩa giành chính quyền ở các đô thị và khu công nghiệp trong Cách mạng Tháng Tám.
Ngày 15.8.1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đảng ta quyết định Tổng khởi nghĩa. Dù số lượng chưa đông, giai cấp công nhân đã đảm nhận các vị trí then chốt trong nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp, bảo đảm vừa làm chủ sản xuất, vừa là lực lượng xung kích khởi nghĩa.
Tại Sài Gòn – Chợ Lớn, 25.8.1945, lực lượng xung kích của Tổng Công đoàn Nam Bộ khởi nghĩa thắng lợi, đập tan âm mưu của bọn phản động thân Pháp, thân Nhật. Ở Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An, Đà Nẵng, đội ngũ công nhân hòa vào biển người khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Chỉ hai tuần, bộ máy chính quyền thực dân – phong kiến sụp đổ. Ngày 2.9.1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH. Thắng lợi ấy khẳng định vai trò trung tâm đoàn kết của tổ chức Công đoàn và tính tiên phong của giai cấp công nhân trong sự nghiệp giành chính quyền.
Công nhân ngành Kiến trúc Sài Gòn đấu tranh đòi trả tự do cho cán bộ nghiệp đoàn bị bắt giam tháng 9/1945. Ảnh tư liệu.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước đối mặt “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Đầu 1946, Hội nghị đại biểu công nhân cứu quốc quyết định thống nhất thành Công đoàn Việt Nam; 20.7.1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức ra mắt với hơn 20 vạn đoàn viên.
Công đoàn đã vận động khôi phục sản xuất tại các nhà máy tư bản bỏ chạy; thành lập công đoàn cơ sở; giám sát, đấu tranh buộc chủ sử dụng và cơ quan quản lý thực thi nghiêm chính sách lao động của Nhà nước. Phát động phong trào “diệt giặc dốt”, “Nam tiến”; nhiều công nhân, viên chức tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang; công nhân đường sắt tổ chức đoàn tàu đặc biệt vận chuyển quân lương chi viện tiền tuyến. Tổ chức phong trào thi đua yêu nước, sửa chữa vũ khí, sản xuất hàng hoá phục vụ kháng chiến; hàng trăm cuộc đấu tranh nổ ra tại Hồng Gai, Cẩm Phả, các đồn điền cao su Đông Nam Bộ, cũng như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Đà Nẵng, Sài Gòn – Chợ Lớn.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ I (tháng 1.1950, tại chiến khu Việt Bắc) đề ra mục tiêu: “Động viên công nhân, viên chức cả nước – nhất là công nhân quốc phòng – sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ kháng chiến đến thắng lợi”. Với vai trò đại diện chính trị, xã hội vững chắc, công đoàn góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến tới Điện Biên Phủ 1954 – bản hùng ca chấn động địa cầu.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Công đoàn tập trung khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, đưa công nhân thực sự làm chủ nhà máy, xí nghiệp. Đến 1960, miền Bắc có hơn nửa triệu công nhân; các phong trào “Lao động tiên tiến”, “3 xây, 3 chống” lan tỏa sâu rộng, góp phần đưa giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1965 tăng gấp 8 lần so với 1955. Quốc hội (1957) thông qua Luật Công đoàn, xác định rõ vị trí, chức năng, quyền hạn của Công đoàn trong xã hội mới.
Khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, công đoàn phát động khẩu hiệu “Mỗi công nhân là một chiến sĩ kiên cường”: Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, lập đội tự vệ nhà máy, tham gia phòng không, bảo vệ xí nghiệp, duy trì dây chuyền dưới bom đạn. Chi viện tối đa sức người, sức của cho miền Nam, bảo đảm vận tải, đường sắt, bến cảng thông suốt, giữ vững “mạch máu” hậu phương lớn.
Hưởng ứng phong trào Học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công nhân Nhà máy Cơ khí Hà Nội hăng hái thi đua sản xuất, năm 1970. Ảnh: Tư liệu.
Tại miền Nam, dù bị đàn áp khốc liệt, Công đoàn cách mạng vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức bí mật. Năm 1961, Hội Lao động Giải phóng miền Nam ra đời (sau là Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền Nam Việt Nam), được quốc tế công nhận. Từ đây, phong trào công nhân liên tiếp bãi công, biểu tình lớn – tiêu biểu: ngày 1.5.1958 ở Sài Gòn với hơn 500.000 người; các cuộc đấu tranh của công nhân cao su Dầu Tiếng, dệt, cảng… Trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, công nhân cùng quần chúng đô thị nổi dậy, bảo vệ nhà máy, chi viện vũ khí, lương thực, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, trong Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến, giai cấp công nhân vừa là mũi nhọn chính trị trong giành chính quyền, vừa là hậu phương sản xuất giữ vững “mạch máu” kinh tế – kỹ thuật; còn công đoàn là trung tâm đoàn kết, kết nối lực lượng, kỷ luật và ý chí, chuyển hoá sức mạnh số đông thành sức mạnh tổ chức.
Bước vào mười năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, đội ngũ công nhân, viên chức tiếp tục đóng góp quan trọng cho công cuộc kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc. Công đoàn dẫn dắt thực thi các chính sách then chốt của Nhà nước: trao quyền chủ động sản xuất – kinh doanh và tự chủ tài chính cho xí nghiệp quốc doanh; triển khai cơ chế “ba kế hoạch” trong công nghiệp; mở rộng lương khoán, lương sản phẩm và chế độ tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước - từ đó khơi dậy năng suất, củng cố kỷ luật lao động và thúc đẩy phong trào thi đua. Chuỗi đóng góp ấy khẳng định vai trò tiên phong, nòng cốt của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong mọi giai đoạn của cách mạng.
Đại hội VI của Đảng phân tích rõ những nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế – xã hội, từ đó xác định đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Giai cấp công nhân được khẳng định là lực lượng nòng cốt triển khai đường lối này. Đến năm 1987, công nhân, viên chức, lao động tuy chỉ chiếm 6% dân số, 16% lực lượng lao động xã hội nhưng đã cùng với người sử dụng lao động đóng góp 70,6% tổng sản phẩm xã hội.
Trong tiến trình đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam trở thành lực lượng đi đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước, nòng cốt trong liên minh công – nông – trí thức, hạt nhân của đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Hiện nay cả nước ta có hơn 53 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó, đội ngũ công nhân lao động chiếm khoảng 27% trong số này nhưng hằng năm tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội, hơn 70% ngân sách Nhà nước.
Không chỉ đông đảo về số lượng, trình độ, kỹ năng của công nhân lao động nước ta ngày càng được nâng cao, nhất là trong các ngành nghề then chốt, lĩnh vực mũi nhọn.
Một bộ phận lớn công nhân hiện nay không còn khép mình trong các dây chuyền sản xuất đơn điệu, với những công việc giản đơn mà ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, công nhân lao động đã làm chủ công nghệ, vận hành dây chuyền hiện đại, thao tác kỹ thuật số, đòi hỏi kiến thức và kỹ năng chuyên sâu. Họ chính là hiện thân của một thế hệ “công nhân thời đại mới”, công nhân sáng tạo, công nhân số.
Gắn bó hữu cơ với sự phát triển của giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam trong suốt 80 năm qua đã khẳng định được vị thế là tổ chức chính trị - xã hội đại diện duy nhất, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động. Tổ chức Công đoàn có vai trò rất quan trọng trong sự ra đời và lớn mạnh Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Điều đó được khẳng định tại Điều 10, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên công đoàn và người lao động; là đại diện duy nhất của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Công đoàn Tổng công ty Điện lực miền Trung thăm hỏi người lao động Điện lực Khe Sanh tại hiện trường công tác. Ảnh: Phước Thành.
Từ bước ngoặt đổi mới, Công đoàn Việt Nam xác lập mục tiêu “vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”, đổi tên thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và cùng đội ngũ CNVCLĐ góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm đầu (1986–1990), ổn định đời sống nhân dân. Các kỳ Đại hội tiếp theo kiên trì đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, lấy đoàn viên làm trung tâm; chuyển trọng tâm sang đại diện, thương lượng tập thể, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ và đồng hành với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập. Công đoàn chủ động kiến tạo thể chế (triển khai Nghị quyết 20-NQ/TW, tham mưu Nghị quyết 02-NQ/TW), mở rộng phúc lợi đoàn viên, bảo vệ pháp lý, nâng lương tối thiểu, thúc đẩy thoả ước tập thể và phát triển mạng lưới công đoàn cơ sở.
Trong khủng hoảng và dịch bệnh, công đoàn kịp thời chăm lo an sinh, hỗ trợ người lao động, phát triển thiết chế công đoàn và chương trình nhà ở. Bước vào nhiệm kỳ XIII, công đoàn đặt ba đột phá: đẩy mạnh đối thoại – thương lượng, phát triển đoàn viên khu vực ngoài nhà nước, xây dựng đội ngũ chủ tịch CĐCS vững nghiệp vụ—hướng tới một tổ chức vững mạnh toàn diện, là chỗ dựa tin cậy của người lao động.
Các phong trào thi đua yêu nước do tổ chức Công đoàn Việt Nam phát động lan toả sâu rộng: “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, “Năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn”, “Tham mưu giỏi, phục vụ tốt”, “Đổi mới, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động công đoàn”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Xanh – sạch – đẹp, bảo đảm ATVSLĐ”… Chỉ tính riêng giai đoạn 2018 - 2023 đã có hơn 2,8 triệu sáng kiến được công nhân lao động đề xuất thông qua phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” mang lại giá trị làm lợi gần 164 nghìn tỷ đồng.
Công nhân Công ty TNHH Wooin Vina (Cụm công nghiệp Tháp - Hồng - Kỷ, Nghệ An) hăng say lao động hướng đến dịp Quốc khánh. Ảnh: Hoàng Ý.
Năm 2024, có hơn 123 nghìn sáng kiến, gần 3.000 công trình sáng tạo được triển khai trong thực tiễn. Đặc biệt, chương trình “1 triệu sáng kiến” do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát động năm 2022 đã vượt gấp đôi chỉ tiêu, đem lại hơn 33.000 tỷ đồng giá trị làm lợi. Nhưng hơn cả những con số, đó là khát vọng được khẳng định bản thân, được cống hiến cho đất nước của những người công nhân trong kỷ nguyên mới.
Từ ngọn lửa Tháng Tám, qua hai cuộc kháng chiến, đến công cuộc Đổi mới và thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập, năng lực tổ chức, kỷ luật lao động và tinh thần sáng tạo của giai cấp công nhân, cùng sự đổi mới phương thức hoạt động của Công đoàn, đã góp phần quan trọng vào mọi thắng lợi của cách mạng; đồng thời củng cố hệ thống chính trị và bồi đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bước vào giai đoạn chuyển đổi số, kinh tế xanh và chuỗi giá trị toàn cầu, mục tiêu càng cao hơn: xây dựng đội ngũ công nhân “tay nghề – công nghệ – kỷ luật”; để Công đoàn thực sự trở thành “bệ phóng sáng tạo”, mở rộng phúc lợi, nâng tầm thương lượng, kiến tạo quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ. Với tinh thần đoàn kết – kỷ luật – sáng tạo, giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam quyết tâm cùng cả nước hiện thực hoá khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc.
Theo Tạp chí LĐ và CĐ