Công đoàn Ngân Hàng Việt Nam

Thứ tư, 20/11/2024 | 05:16

Trao đổi kinh nghiệm

10 điểm mới về hợp đồng lao động từ năm 2021 cần lưu ý

05/10/2020

Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản

Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản

Ngày 1-1-2021, Bộ luật lao động năm 2019 sẽ chính thức có hiệu lực. Bộ luật này có nhiều thay đổi đáng kể so với quy định hiện hành. Một trong số đó có thể kể đến 10 điểm mới liên quan đến hợp đồng lao động (HĐLĐ).
1. Bổ sung quy định liên quan đến xác định HĐLĐ
Để chấm dứt việc dùng tên gọi khác cho HĐLĐ nhằm né tránh nghĩa vụ theo luật định, Điều 13 BLLĐ năm 2019 đã quy định: Trong trường hợp các bên có thỏa thuận bằng tên gọi khác, thì thỏa thuận đó vẫn coi là HĐLĐ nếu gồm hai nội dung: Việc làm có trả công, tiền lương; Sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên.
Có thể thấy, quy định mới đã tăng tính nhận diện của HĐLĐ, dù xuất hiện với tên gọi nào nhưng nếu có hai nội dung trên thì đều được coi là HĐLĐ.
2. Công nhận HĐLĐ điện tử
Trước khi nhận người lao động (NLĐ) vào làm việc thì người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) với NLĐ.
BLLĐ năm 2019 tiếp tục ghi nhận 2 hình thức của hợp đồng theo quy định hiện nay là bằng lời nói và bằng văn bản. Bên cạnh đó, Bộ luật này đã bổ sung thêm hình thức HĐLĐ điện tử.
Cụ thể tại Điều 14: "HĐLĐ được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như HĐLĐ bằng văn bản."
Như vậy, NSDLĐ cũng như NLĐ sẽ có thêm lựa chọn về hình thức hợp đồng khi việc giao kết hợp đồng để việc ký kết hợp đồng trở nên linh hoạt hơn.
3. NSDLĐ không được buộc NLĐ làm việc để trả nợ
Theo quy định tại Điều 20 BLLĐ năm 2012, khi giao kết hay thực hiện hợp đồng, NSDLĐ không được thực hiện các hành vi sau:
- Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của NLĐ;
- Yêu cầu NLĐ phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện HĐLĐ.
Từ ngày 1-1-2021 khi BLLĐ năm 2019 chính thức có hiệu lực, ngoài các hành vi kể trên, NSDLĐ không được buộc NLĐ thực hiện HĐLĐ để trả nợ (theo quy định tại khoản 3, Điều 17 Bộ luật này). Quy định này giúp góp phần đảm bảo quyền lợi cho NLĐ trong quan hệ lao động.
4. Chính thức bỏ hợp đồng thời vụ
Khoản 1, Điều 20 BLLĐ năm 2019 chỉ còn 2 loại HĐLĐ là hợp đồng không xác định thời và hợp đồng xác định thời hạn trong khi quy định hiện hành là 3 loại hợp đồng.
Theo đó, Bộ luật mới sẽ không còn HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Có thể thấy, khi giao kết HĐLĐ với NLĐ, NSDLĐ chỉ được lựa chọn ký hợp đồng có xác định thời hạn hoặc hợp đồng không xác định thời hạn.
5. Nội dung thử việc có thể được quy định trong HĐLĐ
BLLĐ năm 2012 quy định NSDLĐ và NLĐ có thỏa thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc.
Từ 1-1-2021, NLĐ và NSDLĐ sẽ có thêm sự lựa chọn, đó là có thể thỏa thuận về nội dung thử việc trong HĐLĐ hoặc ký hợp đồng thử việc (theo quy định tại Điều 24 BLLĐ năm 2019).
Đồng thời, về thử việc, BLLĐ năm 2019 cũng không áp dụng thử việc với NLĐ ký HĐLĐ dưới 1 tháng và ban hành quy định riêng về thời gian thử việc (không quá 180 ngày) với người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
6. Thêm 4 trường hợp tạm hoãn HĐLĐ
Các trường hợp tạm hoãn HĐLĐ theo pháp luật hiện hành có thể kể đến: NLĐ thực hiện nghĩa vụ quân sự; NLĐ bị tạm giữ, tạm giam; lao động nữ mang thai;…
BLLĐ năm 2019 đã bổ sung thêm 4 trường hợp tạm hoãn hợp đồng:
- NLĐ thực hiện nghĩa vụ tham gia Dân quân tự vệ;
- NLĐ được bổ nhiệm làm người quản lý doanh nghiệp của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
NLĐ được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp;
- NLĐ được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với phần vốn của doanh nghiệp đầu tư tại doanh nghiệp khác.
7. NLĐ có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ không cần lý do
Theo như pháp luật hiện hành, NLĐ làm việc theo hợp đồng xác định thời hạn khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ vừa phải đáp ứng thời gian báo trước vừa phải có 1 trong các lý do quy định tại khoản 1, Điều 37 BLLĐ năm 2012 như: Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;…
Trong khi đó, khoản 1, Điều 35 BLLĐ năm 2019 quy định NLĐ không cần lý do vẫn có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ nhưng cần đảm bảo thời gian báo trước.
8. 7 trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ không cần báo trước
So với BLLĐ năm 2012, BLLĐ năm 2019 đã cụ thể hóa tất cả các trường hợp cho phép NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không cần báo trước.
Có 7 trường hợp NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước sau:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4, Điều 97 của Bộ luật này;
- Bị NSDLĐ ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1, Điều 138 của Bộ luật này;
- Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
- NSDLĐ cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1, Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện HĐLĐ.
9. Thêm 3 trường hợp NSDLĐ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ
Nhằm cân bằng quyền lợi cho cả NLĐ và NSDLĐ trong việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ, BLLĐ năm 2019 đã bổ sung thêm 3 trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ được coi là hợp pháp:
- NLĐ tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 5 ngày làm việc liên tục trở lên;
- NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
- NLĐ cung cấp không trung thực thông tin về họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, trình độ kỹ năng nghề, xác nhận tình trạng sức khỏe và vấn đề khác liên quan khi giao kết HĐLĐ làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng NLĐ.
10. Tăng thời hạn thanh toán các khoản tiền khi chấm dứt HĐLĐ
Để đảm bảo thực hiện trách nhiệm thanh toán giữa NLĐ và NSDLĐ khi chấm dứt HĐLĐ, BLLĐ 2019 kéo dài thời gian thanh toán các khoản tiền liên quan đến quyền lợi của mỗi bên.
Theo quy định mới, trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ (theo pháp luật hiện hành là 7 ngày), hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ một số trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 48 nhưng không được quá 30 ngày, cụ thể:
- NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;
- NSDLĐ thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;
- Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.
Trên đây là những quy định mới liên quan đến HĐLĐ mà NSDLĐ cũng như NLĐ cần biết trước ngày 1-1/-021.
Theo LuatVietnam

Tin cùng chuyên mục